Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
https://jstt.vn/index.php/vn
<p>Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông (JSTT) phiên bản Tiếng Việt (ISSN: 2734-9942) thuộc Trường Đại học Công nghệ GTVT (UTT) được xuất bản theo Giấy phép hoạt động báo chí số 399/GP-BTTTT ngày 29/6/2021 của Bộ Thông tin và Truyền Thông với số lượng xuất bản ban đầu là 04 số/năm.</p> <p>JSTT là một Tạp chí khoa học bình duyệt, xuất bản các bài báo khoa học, các báo cáo và thông tin khoa học trong tất cả các khía cạnh của khoa học và các chủ đề liên quan chủ yếu đến giao thông và xây dựng, kinh tế, cơ khí, công nghệ thông tin. Tạp chí bao gồm các lĩnh vực nhưng không giới hạn:<br />- Quy hoạch và kỹ thuật giao thông<br />- Công trình xây dựng và dân dụng<br />- Vật liệu xây dựng<br />- Kỹ thuật cơ khí<br />- Cơ học<br />- Địa kỹ thuật<br />- Logistics và vận tải hàng hóa<br />- Kinh tế và quản lý xây dựng<br />- Khoa học môi trường<br />- Khoa học trái đất<br />- Khoa học máy tính<br />- Điện, điện tử, viễn thông<br />- Kỹ thuật ô tô<br />- Khoa học tự nhiên<br />- Khoa học cơ bản<br />- Khoa học xã hội và nhân văn<br />- Khoa học giáo dục</p> <ul> <li><a href="https://jstt.vn/index.php/vn/about#noi-dung"><strong>Nội dung đăng tải của tạp chí</strong></a></li> <li><a href="https://jstt.vn/index.php/vn/about#chinh-sach"><strong>Chính sách Tạp chí</strong></a></li> </ul>Trường Đại học Công nghệ GTVTvi-VNTạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông 2734-9942Nghiên cứu ứng dụng máy cắt laser chế tạo khung robot và khung vỏ sản phẩm
https://jstt.vn/index.php/vn/article/view/266
<p>Hiện nay, lĩnh vực khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển, máy móc đang dần thay thế sức lao động của con người, và để đáp ứng với sự thay đổi đó thì các trường đại học trên thế giới thường kết hợp các bài giảng lý thuyết song song với thực hành. Sinh viên sau khi được học lý thuyết ở trên lớp, sẽ được tiếp cận với máy móc thực tế, vận dụng các kiến thức của mình để chế tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Trong các trường Đại học chuyên ngành kỹ thuật, sinh viên được học thực hành các kỹ năng thiết kế và chế tạo robot. Khi đó, một công đoạn không thể thiếu trong việc chế tạo khung robot đó là thao tác cắt các chi tiết. Đối với các phương pháp cắt truyền thống là sử dụng máy cắt cơ khí thì không đảm bảo được độ chính xác và độ phức tạp của các đường cắt nhỏ. Trong nội dung bài nghiên cứu này, nhóm tác giả trình bày nghiên cứu ứng dụng máy cắt laser trong công đoạn cắt khung robot bằng mica và chế tạo khung vỏ sản phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy thao tác thực hiện cắt khung robot bằng máy cắt laser đạt được độ chính xác và nhanh hơn rất nhiều so với thao tác cắt thủ công.</p>Hoàng Thế PhươngTrần Duy DũngVõ Thanh ĐượcVương Thị HươngNgô Thị Lành
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
2025-02-172025-02-171910.58845/jstt.utt.2025.vn.5.1.1-9Bài học kinh nghiệm về kinh tế tuần hoàn của một số quốc gia châu Á và những hàm ý cho Việt Nam
https://jstt.vn/index.php/vn/article/view/278
<p>Vấn đề đặt ra hiện nay đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới là tìm ra những nguồn tài nguyên thay thế để phục vụ các ngành sản xuất đặc biệt, trong bối cảnh khủng hoảng tài nguyên, kinh tế tuần hoàn được xem như một giải pháp cần thiết nhằm giảm thiểu lãng phí, tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, và là một mô hình phát triển bền vững. Bài viết này làm rõ khái niệm và nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn, tổng hợp các mô hình kinh tế tuần hoàn từ các quốc gia tiên tiến, bao gồm những chiến lược và chính sách thành công, cũng như những thách thức gặp phải. Từ đó, đưa ra các đề xuất và bài học cho Việt Nam trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn. Kết quả của nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam mà còn đóng góp vào việc xây dựng một nền tảng bền vững hơn cho nền kinh tế quốc gia.</p>Bùi Thị Xuân HươngPhạm Hà Châu QuếTrần Thế Tuân
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
2025-02-172025-02-17102310.58845/jstt.utt.2025.vn.5.1.10-23Phân tích hiệu quả giảm dao động dây văng có sử dụng thiết bị giảm chấn thủy lực
https://jstt.vn/index.php/vn/article/view/289
<p>Dây văng là bộ phận chịu lực chủ yếu trong cầu dây văng. Khi chiều dài dây cáp văng tăng lên, nó trở nên nhạy cảm với các vấn đề dao động, gây ra hiện tượng mỏi vật liệu làm giảm độ bền và sức chịu tải của công trình. Để giảm dao động cho dây văng, các loại thiết bị giảm chấn được lắp đặt nhằm bổ sung thêm, tăng độ giảm chấn, ví dụ như thiết bị giảm chấn thủy lực. Việc xác định thông số của thiết bị giảm chấn thủy lực là rất cần thiết nhằm đảm bảo hiệu quả giảm dao động. Bài báo trình bày việc thiết lập mô hình phân tích hiệu quả giảm dao động dây văng có sử dụng thiết bị giảm chấn thủy lực bằng phương pháp phần tử hữu hạn. Từ đó xác định thông số cản phù hợp cho dây văng. Kết quả mô hình phân tích được so sánh với giá trị đo thí nghiệm hiện trường tại cầu dây văng Mỹ Thuận 2.</p>Nguyễn Tuấn NgọcPhùng Bá ThắngTrần Trung HiếuNguyễn Trọng Đồng
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
2025-02-172025-02-17586510.58845/jstt.utt.2025.vn.5.1.58-65Thiết kế, chế tạo thiết bị đo dao động kết cấu công trình sử dụng cảm biến gia tốc MEMS
https://jstt.vn/index.php/vn/article/view/290
<p>Bài báo này trình bày nội dung thiết kế, chế tạo mạch chuyên dụng sử dụng cảm biến gia tốc MEMS (Micro-ElectroMechanical System) để thu nhận dữ liệu, phục vụ đánh giá tình trạng kỹ thuật và theo dõi quan trắc kết cấu. Thiết bị này kết nối hai cảm biến gia tốc kế ba trục ADXL345 và ADXL355 để đo gia tốc của kết cấu, cụ thể là một mô hình dầm thép tại phòng thí ngiệm của Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải. Kết quả được so sánh với thiết bị đánh giá dao động tham chiếu là SDA-810C và mô phỏng số sử dụng phương pháp Phân tích phần tử hữu hạn. Các trường hợp phân tích và so sánh cho thấy hệ thống đảm bảo độ chính xác và độ nhạy khi so sánh với cảm biến thương mại. Thiết bị bao gồm phần cứng, phần mềm khá hoàn chỉnh cho kết quả đáp ứng yêu cầu, tiết kiệm chi phí sản xuất và thuận lợi trong quá trình sử dụng.</p>Phùng Bá ThắngDương Quang KhánhVũ Quang DũngNguyễn Xuân Đức AnhHoàng Mạnh QuânLê Hoàng Giang
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
2025-02-172025-02-17364510.58845/jstt.utt.2025.vn.5.1.36-45Đánh giá độ êm dịu của hệ thống treo chủ động 1/4 xe bằng bộ điều khiển PID và Fuzzy trên phần mềm MATLAB/SIMULINK
https://jstt.vn/index.php/vn/article/view/294
<p>Bài báo nghiên cứu đánh giá độ êm dịu của hệ thống treo chủ động 1/4 xe dưới các điều kiện đường xá khác nhau với tần số kích ứng liên tục, bằng cách sử dụng bộ điều khiển PID và Fuzzy. Mô hình được xây dựng trên MATLAB/SIMULINK để so sánh hiệu suất của hai bộ điều khiển. Kết quả cho thấy PID đạt độ chính xác cao và hiệu quả trong việc giảm dao động, trong khi Fuzzy mặc dù linh hoạt và hiệu quả cao hơn tuy nhiên gặp khó khăn trong việc điều khiển chính xác và mượt mà. Nghiên cứu khẳng định ưu thế của PID trong các ứng dụng yêu cầu độ ổn định và đáp ứng nhanh.</p>Cao Huỳnh Minh HiếuNguyễn Thủy Lưu
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
2024-02-172024-02-17243510.58845/jstt.utt.2025.vn.5.1.24-35So sánh, lựa chọn và đề xuất tiêu chí đánh giá ga đường sắt xanh tại Việt Nam
https://jstt.vn/index.php/vn/article/view/299
<p>Tiêu chuẩn đánh giá công trình xây dựng xanh (Green building: GB) đã được phát triển và áp dụng sớm ở nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn đánh giá đối với ga đường sắt xanh cũng được phát triển trên cơ sở tiêu chuẩn đánh giá Công trình xanh (CTX), tuy nhiên việc ban hành tiêu chuẩn riêng cho lĩnh vực đường sắt vẫn còn rất hạn chế ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các tiêu chuẩn được xây dựng, ban hành và công bố sẽ đóng góp đáng kể cho chiến lược phát triển xanh, công tác bảo vệ môi trường và hiện thực hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Để đề xuất được tiêu chí đánh giá ga đường sắt xanh cho Việt Nam, trước tiên cần nghiên cứu, phân tích và so sánh các tiêu chuẩn đánh giá CTX và tiêu chuẩn đánh giá ga hành khách đường sắt xanh ở một số quốc gia trên thế giới. Vì vậy, bài báo này được thực hiện trên cơ sở tổng quan tài liệu để phân tích và lựa chọn tiêu chí đánh giá của các tiêu chuẩn bao gồm BREEAM (Building Research Establishment Environmental Assessment Method) của Anh; LEED – NC (Leadership In Energy & Environment Design) của Mỹ; CASBEE (Comprehensive Assessment System for Building Environmental Efficiency) của Nhật Bản; ESGB (Environmental, Social, and Governance) của Trung Quốc và LOTUS (Local green and universal smart) của Việt Nam. Kết quả so sánh cho thấy rằng các hệ thống có những điểm tương đồng nhất định và khác biệt riêng dựa trên sự xem xét 7 tiêu chí về sử dụng hiệu quả năng lượng; sử dụng hiệu quả nước; vật liệu/giảm chất thải; chất lượng môi trường bên trong; vị trí và môi trường bên ngoài; quản lý và các hạng mục khác. Sau đó, 5 tiêu chí đầu được lựa chọn để so sánh và phân tích sâu hơn. Trên cơ sở đó, các tiêu chí đánh giá đối với ga đường sắt xanh tại Việt Nam sẽ được đề xuất. </p>Phạm Thị HuếNgô Thị Thanh HươngKiều Văn CẩnNguyễn Thành ĐôngLê Hoài Nam
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông
2025-02-172025-02-17465710.58845/jstt.utt.2025.vn.5.1.46-57